Tính riêng trong 2 năm
2016 và 2017, toàn tỉnh đã triển khai thực hiện gần 100 nhiệm vụ KH&CN mới
cấp quốc gia và cấp tỉnh, trong đó có 14 nhiệm vụ cấp quốc gia. Các nhiệm vụ
KH&CN được triển khai thực hiện đã và đang giúp các đơn vị, địa phương tiếp
cận và ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiến bộ để chủ động sản xuất.
Ứng
dụng KH&CN trong sản xuất thuốc tại Công ty CP Dược - Vật tư y tế Thanh
Hóa.
Nâng
cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật (KHKT) phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân là
một trong 4 khâu đột phá được Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015
- 2020 quyết nghị. Theo đó, phát huy tiềm năng, lợi thế, trong những năm qua,
các cấp ủy đảng, chính quyền trong tỉnh luôn quan tâm đầu tư cho khoa học và
công nghệ (KH&CN), coi KH&CN là động lực quan trọng đối với sự phát
triển và hội nhập.
Để
KH&CN trở thành khâu đột phá cho sự phát triển, nhiệm vụ được tỉnh ta đặt
ra là đẩy mạnh công tác tuyên truyền tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành
động của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của KH&CN,
cùng với đó, quan tâm đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách phát triển KH&CN.
Đồng thời, ban hành nhiều đề án, chương trình, kế hoạch cụ thể hóa các chủ
trương, định hướng lớn trên tất cả các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của
ngành KH&CN. Đơn cử như kế hoạch hành động thực hiện khâu đột phá về nâng
cao năng lực nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ KHKT phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII; Đề
án “Phát triển KH&CN tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 – 2020”; Chương trình hỗ
trợ phát triển tài sản trí tuệ tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016-2020... Đặc biệt,
ngày 7-12-2017, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 81/2017/NQ-HĐND về “Chính sách
khuyến khích phát triển KH&CN trở thành khâu đột phá trong phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020”. Đây được coi là tiền đề quan trọng
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển, ứng dụng KH&CN, làm cho KH&CN thực sự
trở thành động lực cho sự phát triển. Bên cạnh công tác tuyên truyền, ban hành
chủ trương, chính sách, tỉnh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ KH&CN phục vụ cho
công tác quản lý, nghiên cứu khoa học.
Hiện
nay, nguồn nhân lực KH&CN của tỉnh có trên 147,4 nghìn người. Trong đó, có
18 phó giáo sư, 184 tiến sĩ, trên 4,7 nghìn thạc sĩ, trên 68,5 nghìn cử nhân
đại học và trên 74 nghìn cử nhân cao đẳng. Nhân lực KH&CN thuộc các tổ chức
KH&CN trên địa bàn tỉnh có trên 2,7 nghìn người, chiếm 1,8% tổng số nhân
lực KH&CN của tỉnh; nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
(R&D) có 1,933 nghìn người. Đây là nhân tố quyết định đối với sự phát triển
KH&CN.
Dựa trên
cơ sở đó, sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVIII, việc nghiên cứu và ứng dụng chuyển giao tiến bộ KHKT phù hợp với thực
tiễn của tỉnh trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, y dược, công
nghệ thông tin... có nhiều chuyển biến tích cực. Tính riêng trong 2 năm 2016 và
2017, toàn tỉnh đã triển khai thực hiện gần 100 nhiệm vụ KH&CN mới cấp quốc
gia và cấp tỉnh, trong đó có 14 nhiệm vụ cấp quốc gia. Các nhiệm vụ KH&CN
được triển khai thực hiện đã và đang giúp các đơn vị, địa phương tiếp cận và
ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiến bộ để chủ động sản xuất giống cây trồng trong
nông nghiệp, lâm nghiệp và trong nuôi trồng thủy sản, phát triển các sản phẩm
lợi thế của mỗi địa phương, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cho các doanh
nghiệp, tổ chức KH&CN... Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp đã ứng dụng các
biện pháp canh tác lúa tiên tiến (sử dụng phân viên nén tại các huyện miền núi
đạt trên 4.200 ha; kỹ thuật cấy theo hiệu ứng đường biên hơn 5.000 ha; quản lý
dịch hại tổng hợp IPM; quản lý cây trồng tổng hợp ICM...); cơ giới hóa khâu làm
đất (cây lúa đạt 90%, cây ngô đạt 80%, cây mía đạt 75%...), khâu chăm sóc, thu
hoạch trong nông nghiệp. Trong chăn nuôi đã ứng dụng thành công các công nghệ
cao như thụ tinh nhân tạo, công nghệ cấy truyền phôi, tinh đông lạnh, tinh phân
giới tính, cấy truyền hợp tử bò sữa cao sản... Đặc biệt, 57 vùng sản xuất rau
an toàn tập trung trong toàn tỉnh theo tiêu chuẩn VietGap đã và đang thực hiện
đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng với tổng diện tích là 334,9 ha, trong đó có 30
đơn vị xây dựng nhà lưới để sản xuất với tổng diện tích 26.470 m2.
Theo
thống kê của ngành chức năng, năm 2016, toàn tỉnh đã triển khai thực hiện 42 mô
hình áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, trong đó, một số mô hình được áp dụng
rộng rãi, như: Mô hình sản xuất lúa theo phương pháp hữu cơ, có quy mô 180 ha,
được triển khai tại huyện Thiệu Hóa; mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất mía tại huyện Thạch Thành. Đồng thời, đưa nhiều giống lúa mới, năng suất
cao vào sản xuất, như: Thuần Việt 2, Thuần Việt 7, Lam Sơn 8, TBR225, HN6,
M1-NĐ, SV181... Trong năm 2017, nhiều địa phương trong tỉnh đã triển khai xây
dựng mô hình sản xuất theo hình thức cánh đồng mẫu lớn áp dụng tiến bộ KHKT
mới, gắn với bao tiêu sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cùng với lĩnh vực
nông nghiệp, lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ đã nghiên cứu và ứng dụng nhiều tiến
bộ kỹ thuật trong sản xuất vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, bảo quản
nông sản sau thu hoạch... góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tăng năng suất, hạ giá
thành sản phẩm. Lĩnh vực y dược cũng đã tập trung nghiên cứu, ứng dụng công
nghệ trong chẩn đoán, phát hiện, phòng và điều trị bệnh, đánh giá thực trạng
một số bệnh trong cộng đồng có xu hướng gia tăng cùng với biến động của môi
trường, khí hậu...
Cùng
với việc phát huy nội lực, ngành khoa học tỉnh nhà đã chủ động đẩy mạnh hoạt
động hợp tác và hội nhập quốc tế về KH&CN. Theo đó, hoạt động hợp tác với
các viện nghiên cứu, các trường đại học trong nước được thực hiện thường xuyên,
liên tục, như: Viện Nghiên cứu Hải sản I và III, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt
Nam, Viện Năng lượng Nguyên tử... Thông qua hợp tác nghiên cứu, một số giống
cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng cao, một số kỹ thuật tiên tiến đã
được chuyển giao vào địa bàn tỉnh, như: Lúa thơm, lúa ngắn ngày, lúa chịu mặn;
các giống ngô, đậu xanh, đậu tương, lạc; các sản phẩm công nghệ cao như dưa Kim
hoàng hậu, giống cam không hạt V2; mô hình sử dụng năng lượng mặt trời chiếu
sáng đường phố; mô hình xử lý chất thải chăn nuôi bằng tháp UASB. Đặc biệt, một
số doanh nghiệp lớn trong tỉnh đã chú trọng hợp tác nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ với các tổ chức nước ngoài, như Công ty CP Mía đường Lam
Sơn hợp tác với Viện nghiên cứu Mía đường Lucknow (Ấn Độ) để tuyển chọn và nhân
giống mía; Công ty CP Công nông nghiệp Tiến Nông đang tiến hành hợp tác với
Công ty Lehmann Maschinenbau GmbM (Cộng hòa Liên bang Đức) để tiếp nhận, làm
chủ công nghệ sản xuất phân bón phức hợp bằng công nghệ tháp cao...
Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, hoạt động KH&CN trên địa bàn
tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, như: Chất lượng, hiệu quả hoạt
động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất và
đời sống chưa đồng đều; việc nhân rộng các thành tựu KH&CN mới, các mô hình
KH&CN có hiệu quả vào thực tiễn sản xuất và đời sống còn chậm; trình độ
công nghệ trong các doanh nghiệp phần lớn ở mức trung bình trở xuống; tiềm lực
KH&CN đã được quan tâm đầu tư, song chưa đủ mạnh. Số lượng cán bộ KH&CN
của tỉnh không ít (khoảng 4,19% dân số), song số lượng cán bộ làm công tác
nghiên cứu và phát triển chỉ đạt tỷ lệ 5,5 người/1 vạn dân...
Để
KH&CN trở thành động lực cho sự phát triển và hội nhập, trong thời gian
tới, ngành chức năng, chính quyền các cấp cần tiếp tục triển khai thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII; nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền về vai trò và động lực của KH&CN
trong phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường xây dựng, phát triển tiềm lực
KH&CN nhằm tiếp thu, làm chủ, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ KHKT,
công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ
KH&CN với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và
mỗi địa phương đơn vị. Cùng với đó, từng bước đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Nguồn: Báo Thanh Hóa