Xây dựng bản đồ công nghệ là một cách tiếp cận phù hợp trong
việc đánh giá toàn diện và khách quan hiện trạng, năng lực công nghệ trong các
ngành, lĩnh vực sản xuất. Bản đồ công nghệ giúp chúng ta nhận diện rõ, chính
xác những vấn đề như Việt Nam đang sở hữu những công nghệ nào, ở đâu, khoảng
cách của chúng ta so với các nước ra sao.
Bản đồ công nghệ là bộ tài liệu cung cấp nhiều thông tin liên
quan đến thị trường, công nghệ và sản phẩm. Mối liên quan giữa công nghệ, sản
phẩm và thị trường không thể tách rời, nên một công nghệ cho ta biết được có
thể sản xuất ra những sản phẩm nào và sản phẩm đó chiếm lĩnh được thị trường
nào trong nhiều phân khúc khác nhau. Với vai trò mang tính chất định
hướng, dẫn dắt các nhà đầu tư vào công nghệ và sản phẩm cho phù hợp với phương
thức đó, thì vai trò của bản đồ công nghệ hết sức quan trọng.
Trong bối cảnh hiện tại thì
điển hình ngành nông nghiệp, đổi mới công nghệ đóng góp 35% tăng trưởng trong
ngành khi các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng khác là lực lượng lao động và quỹ đất
ngày một giảm đi, đặc biệt trong ngành sản xuất lúa gạo. Việc ứng dụng và đổi mới
công nghệ đã đưa lúa gạo nước ta không những đảm bảo an ninh lương thực trong
nước, mà còn ở trong top 3 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới trong nhiều năm
qua. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, cạnh tranh ngày càng cao cùng
với biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, ngành nông nghiệp nói chung và sản xuất
lúa gạo nói riêng cần có những chiến lược đổi mới và phát triển công nghệ phù hợp,
đáp ứng yêu cầu chuyển đổi nền nông nghiệp từ phát triển chiều rộng sang chiều
sâu, hướng đến một nền nông nghiệp sản xuất theo chuỗi hàng hóa, có giá trị gia
tăng cao. Bộ Khoa học và Công nghệ đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn để hoàn thiện toàn bộ các định hướng công nghệ cần phải tập
trung nghiên cứu trong thời gian sắp tới và phối hợp với các chuyên gia để
nghiên cứu công nghệ nhằm đảm bảo cho ngành lúa gạo phát triển, có những thương
hiệu, giống lúa mới, có khả năng cạnh tranh được với các nước xuất khẩu gạo.
Ở
các nước như Hàn Quốc để xây dựng bản đồ công nghệ mất 20 năm, Trung Quốc mất
15 năm. Ở Việt Nam, các thống kê về khoa học và công nghệ của chúng ta tại các
doanh nghiệp còn hạn chế nên mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, thời gian qua
chúng ta có sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Khoa học và Công nghệ, sự cố gắng của
đơn vị chủ trì và ủng hộ của các đơn vị liên quan, cũng như học hỏi kinh nghiệm
của các nước đi trước, nên đã rút ngắn được thời gian xây dựng bản đồ công
nghệ.
Giai
đoạn khó khăn nhất trong xây dựng bản đồ công nghệ là chúng ta phải thống kê
được doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực và công nghệ đang sử dụng của
doanh nghiệp, các khối viện, trường, từ đó xây dựng được từng hồ sơ công nghệ
cho từng lĩnh vực.
Hải Yến (Nguồn:Cục ứng dụng và Phát triển công nghệ)